Tuyên truyền Kỷ niệm 89 năm Ngày truyền thống lực lượng Dân quân Tự vệ (28/3/1935 - 28/3/2024)
Kế
thừa và phát huy truyền thống dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm của dân tộc;
vận dụng đúng đắn sáng tạo nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê Nin vào điều kiện
hoàn cảnh cụ thể của nước ta, ngay từ khi mới ra đời Đảng ta đã đề ra chủ
trương về "Vũ trang cho công nông" (Luận cương Chính trị của Đảng
Cộng sản Đông Dương). Trong những năm 1930 - 1931, trong cả nước có rất nhiều
cuộc bãi công, biểu tình liên tiếp nổ ra ở hầu khắp các địa phương, mà đỉnh cao
là phong trào Xô Viết - Nghệ Tĩnh. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 3
(tháng 3/1931). Đảng ta chủ trương khi giành được chính quyền thì thành lập
"Quân đội công nông".
Ngày
28 tháng 3 năm 1935, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ nhất họp tại Ma Cao (Trung
quốc) Đảng ta đã ra "Nghị quyết về đội tự vệ". Đây là Nghị quyết đầu
tiên của Đảng về tổ chức, chỉ đạo xây dựng, huấn luyện và hoạt động của lực
lượng tự vệ. Nghị quyết về Đội tự vệ đã khẳng định "Tự vệ đội càng mạnh thì
tức là có điều kiện thuận lợi để sau này tổ chức du kích chiến tranh và vũ
trang bạo động". Thực hiện "Nghị quyết về đội Dân quân tự vệ"
của Đảng, các Đội tự vệ công nông mang tính chất là những tổ chức vũ trang quần
chúng ra đời, đây là tiền thân của các Đội Cứu Quốc quân, Đội Việt Nam Tuyên
truyền giải phóng quân sau này.
Trong những năm 1939 - 1940, phong trào cách mạng của
quần chúng đã từ đấu tranh chính trị từng bước tiến lên đấu tranh vũ trang, kết
hợp chặt chẽ đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự. Một số du kích ra đời,
được duy trì và phát triển thành các trung đội Cứu quốc quân. Lực lượng tự vệ
được khẩn trương xây dựng ở trên khắp các tỉnh, nhất là ở Bắc Bộ, Trung Bộ.
Thời kỳ chuẩn bị Tổng khởi nghĩa giành chính quyền (1940
- 1945), đi đôi với chủ trương mở rộng và củng cố các đội tự vệ ở khắp các vùng
nông thôn, thành thị, Đảng ta đã chủ trương thành lập các đội tự vệ cứu quốc,
các tổ, tiểu đội du kích cứu quốc và các đội du kích chính thức. Các đội tự vệ
đã trở thành tổ chức vũ trang quần chúng của các đoàn thể cứu quốc trong Mặt
trận Việt Minh, được xây dựng ở các căn cứ, địa phương có điều kiện; phối hợp
với các đơn vị cứu quốc quân, Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân làm nòng
cốt cho quần chúng thực hiện vũ trang khởi nghĩa từng phần, tiến hành chiến
tranh du kích cục bộ, xây dựng và mở rộng các căn cứ địa Việt Bắc, Đông Bắc,
Ninh Bình, Thanh Hóa, Ba Tơ v.v... đến tháng 8/1945 lực lượng DQTV đã phát
triển lên tới vài chục nghìn người cùng với giải phóng quân và toàn dân thực
hiện thắng lợi cuộc Tổng khởi nghĩa.
Ngày
02/9/1945, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời trong vòng vây của các thế lực
đế quốc và phản động quốc tế. Dân quân tụ vệ (DQTV) Việt Nam trở thành lực
lượng vũ trang của Nhà nước, một trong ba thứ quân của lực lượng vũ trang nhân
dân, một công cụ chủ yếu của chính quyền ở cơ sở. Từ phong trào quân sự hóa
toàn dân, vũ trang toàn dân, tự vệ cứu quốc mà nòng cốt là tự vệ chiến đấu
trong một thời gian ngắn được Mặt trận Việt Minh tổ chức rộng khắp ở các làng
xã, đường phố trong cả nước. Lực lượng này đã thực sự là một công cụ chuyên
chính chủ yếu bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền cách mạng còn non trẻ, bảo vệ
thành quả cách mạng.
Ngày
23/9/1945, Quân đội Pháp được quân Anh giúp sức nổ súng gây chiến tranh xâm
lược nước ta lần thứ 2. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ các địa phương ở miền Nam
nhất là Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ, lực lượng DQTV đã phối hợp với bộ đội chủ
lực anh dũng chiến đấu ngăn chặn địch, diệt ác, trừ gian, phá hoại đường giao
thông…Ở miền Bắc, lực lượng DQTV phối hợp với công an nhân dân và Vệ quốc quân
tham gia trừng trị bọn phản động nội địa, tích cực chuẩn bị mọi mặt cho cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Trong
cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp, hưởng ứng Lời kêu gọi Toàn quốc
kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/12/1946) lực lượng DQTV được nhanh
chóng phát triển rộng khắp trong cả nước ngày càng lớn mạnh, là lực lượng vũ
trang quần chúng do mặt trận chỉ đạo đã từng bước được thống nhất về tổ chức là
một bộ phận trong LLVT nhân dân Việt Nam do các xã đội, huyện đội, tỉnh đội chỉ
đạo, chỉ huy và đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của cấp uỷ Đảng các cấp. Đây là
bước phát triển mới về chất lượng của lực lượng DQTV. Lực lượng DQTV đã cùng vệ
quốc quân và các lực lượng chính trị tạo thành sức mạnh to lớn cho thế và lực
của cách mạng.
Đến
đầu năm 1947, lực lượng DQTV đã phát triển lên gần 3 triệu người, riêng Thủ đô
Hà Nội có 6000 đội viên. Ở chiến trườngNam Bộ, lực lượng dân quân du kích phát
triển trên 27 vạn (nữ có 5,7 vạn); trong đó, du kích chiến đấu là 1,4 vạn. Ở
chiến trường Trung bộ, đến cuối năm 1949 phát triển 28,5 vạn dân quân du kích
22.000 bạch đầu quân. Ở Bắc Bộ, dân quân du kích phát triển mạnh với hơn 27,9
vạn người với đủ các lứa tuổi, trai, gái. Phòng DQTV (nay là Cục DQTV) và hệ
thống cơ quan DQTV từ quân khu đến các địa phương được thành lập để chỉ đạo xây
dựng phong trào. Trong điều kiện hết sức khó khăn gian khổ, bằng các loại vũ
khí thô sơ tự tạo và vũ khí lấy được của địch, phải đương đầu với đội quân viễn
chinh Pháp được trang bị hiện đại, lực lượng DQTV và du kích đã cùng nhân dân
xây dựng làng xã chiến đấu, dựa vào hệ thống này kiên cường bám đất, bám dân,
tiêu hao lớn quân địch, phá tề, trừ gian; tích cực phối hợp với bộ đội địa
phương chống địch càn quét, bao vây, bức hàng, bức rút nhiều đồn bốt địch, giải
phóng làng xã, mở rộng các khu căn cứ du kích; thực hiện tích cực kiềm chế,
căng kéo lực lượng địch, buộc địch phải phân tán đối phó, tạo điều kiện cho ta
bảo vệ vùng tự do và góp phần cùng bộ đội chủ lực thực hiện nhiều chiến dịch
lớn, đánh bại các biện pháp chiến lược của địch, giành thắng lợi trên các chiến
dịch lớn.
Trong
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, lực lượng DQTV và bộ đội địa phương đã
tiêu diệt 23,1 vạn/50 vạn quân địch (chiếm tỷ lệ 46,4% tống ố lực lượng địch bị
tiêu diệt) làm tan rã trên 20 vạn tên (chiếm tỷ lệ 35%) và kiềm chế, phân tán
trên 90% tống số lực lượng trên toàn chiến trường, khiến Đại tướng Nava phải
thú nhận “Quân Pháp đông nhưng chỉ để được 10% lực lượng cơ động chiến lược”.
Vì vậy chiến công của lực lượng DQTV và bộ đội địa phương cùng bộ đội chủ lực
giành thắng lợi quyết định trong chiến dịch Điện Biên Phủ “Lừng lẫy 5
Châu, chấn động địa cầu” và giải phóng hoàn toàn miền Bắc năm 1954.
Cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của dân tộc ta giành thắng lợi đã chấm
dứt hơn 8 năm đô hộ của chủ nghĩa thực dân. Lực lượng dân quân, du kích và tự
vệ đã góp công sức và xương máu vô cùng to lớn vào chiến công của toàn dân tộc.
Trong
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và chống Mỹ cứu nước đấu tranh
giải phóng ở miền Nam, lực lượng DQTV ở miền Bắc đã tích cực tham gia cải cách
ruộng đất, đánh đổ địa chủ, phong kiến, khôi phục và đẩy mạnh sản xuất, tham
gia bắt gọn nhiều toán biệt kích Mỹ - Nguỵ tung ra miền Bắc (nhất là những năm
1960 - 1963). Trong chống chiến tranh phá hoại miền Bắc chủ yếu bằng quân, hải quân
hiện đại của đế quốc Mỹ, lực lượng phòng không DQTV miền Bắc đã được tổ chức
trên 700 phân đội, tăng cường nhiều loại vũ khí tương đối hiện đại như: Súng
máy cao xạ 12,7mm, 14,5mm, 58 đại đội pháo cao xạ 37mm đến 100mm và 36 phân đội
pháo binh các loại đánh tàu chiến địch…Lực lượng DQTV đã phối hợp với bộ đội,
công an và nhân dân thực hiện “tay cày tay súng, tay búa tay súng” chiến đấu
liên tục ngày đêm. Cùng với mạng lưới bắn máy bay địch bay thấp bằng súng bộ
binh hình thành lưới lửa tầm thấp dày đặc vô cùng lợi hại, DQTV đã phối hợp
chặt chẽ với bộ đội phòng không, không quân bắn rơi nhiều máy bay địch. Riêng
DQTV đã độc lập bắn rơi 424 máy bay các loại trong tổng số 4.181 máy bay Mỹ bị
bắn rơi trên miền Bắc (chiếm 10%), bắt sống nhiều giặc lái, bắn chìm và bắn
cháy nhiều tàu chiến địch.
Lực
lượng DQTV còn làm tốt công tác phòng không nhân dân ở cở sở, xây dựng nhiều
công trình phòng tranh, khắc phục hậu quả đánh phá của địch, tiến hành rà bom
kìn, thuỷ lôi, chốn phong toả bằng đường biển…Đã có 183 triệu lượt người
đượchuy động tham gia bảo đảm giao thông, phục vụ chiến đấu, phòng trác sơ tán
khắc phục hậu quả do địch gây ra, chi viện sức người sức của có hiệu quả cho
chiến trường miền Nam. Những kinh nghiệm cực kỳ phong phú và sáng tạo trong xây
dựng, hoạt động, chiến đấu của DQTV trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ đã
đúc kết, rút kinh nghiệm để kịp thời áp dụng trong nhiệm vụ củng cố quốc phòng
hiện nay.
Lực
lượng dân quân du kích ở miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ cứu nướ đã tỏ rõ
khả năng anh dũng phi thường, luôn chủ động đánh địch bằng mọi thứ vũ khí, vận
dụng các hình thức đánh địch hết sức phong phú sáng tạo trên khắp 3 vùng chiến
lược; kết hợp chặt chẽ đấu tranh chính trị với đấu tranh 3 mũi giáp công (quân
sự, chính trị, binh vận), hình thành thế trận chiến đấu, phát triển các căn cứ
chiến đấu, vành đai du kích, vành đai diệt Mỹ…thực hiện bám trụ kiên cường, giữ
thế xen kẽ, cài răng lược với địch. Đây là phương thức tác chiến, một cách đánh
độc đáo sáng tạo của chiến tranh du kích Việt Nam. Lực lượng dân quân du kích
đã phối hợp với nhân dân đấu trang quyết liệt chống địch dồn dân lập “Khu trù
mật”, lập “Ấp chiến lược”, độc lập và phối hợp với bộ đội địa phương và bộ đội
chủ lực trong mọi hoạt động, góp phần đánh các chiến thuật “Trực thăng vận”,
“Thiết xa vận” và các chiến lược chiến tranh của Mỹ - Nguỵ như “Bình định”, “Ấp
chiến lược” , “Tát nước bắt cá”, “Chiến tranh đặc biệt”, “Chiến tranh cục bộ”,
“Việt Nam hoá chiến tranh”…Mặc dù địch có phương tiện cơ động bằng máy bay và
cơ giới, nhưng chúng phải phân tán tới 90% quân só để đối phó với lực lượng vx
trang địa phương của ta; đó là một thắng lợi có ý nghĩa chiến lược cực kỳ quan
trọng. Trong cuộc tổng tiến công mùa xuân năm 1975, lực lượng DQTV cùng bộ đội
chủ lực và toàn dân miền Nam tiến công và nổi dậy đồng loạt; xã giải phóng xã,
huyện giải phóng huyện; tỉnh giải phóng tỉnh “đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ
nhào” đã góp phần vô cùng quan trọng vào Đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải
phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất Đất nước. Về chiến tranh du kích ở miền Nam
một số nhà báo và chính giới Mỹ đã phải thừa nhận: “Cuộc chiến tranh du kích là
một nghệ thuật mà Việt Cộng đã trở thành bậc thầy, những nghệ sĩ vĩ đại trong
nghệ thuật đó” hoặc “Chúng ta phải đương đầu với quân du kích tài tình chưa
từng thấy trong lịch sử loài người” (R.Rát-xét, Chủ tịch Uỷ ban quân lực Thượng
nghị viện Mỹ).
Từ khí
cả nước độc lập, thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội lực lượng DQTV đã làm nòng
cốt cho nhân dân ở cơ sở khắc phục hậu quả chiến tranh, tích cực rà phá, bóc gỡ
bom mìn, giả phóng hàng triệu héc ta đất canh tác để nhân dân khôi phục sản
xuất, tiếp tục truy quét tàn quân, bọn phản động của địch còn cài cắm lại. Lực
lượng DQTV đã được huy động hàng triệu lượt người tham gia xây dựng tuyến phòng
thủ biên giới, phối hợp và phục vụ bộ đội chiến đấu góp phần quan trọng vào
thắng lợi của 02 cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc biên giới phía Bắc và biên
giới Tây Nam, phối hợp với Công an nhân và các lực lượng khác thực hiện tốt
việc bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Đất nước.
Quán
triệt thực hiện đường lối đổi mới trong các Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc
khoá VI, VII, VIII và các Nghị quyết của Đảng về quốc phòng - an ninh. Đặc biệt
là ngày 28/9/1989, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 55/BBT và ngày
29/01/1990 Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định số 29/HĐBT về xây dựng lực
lượng DQTV trong tình hình mới.
Quán triệt các Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc về tăng
cường quốc phòng và an ninh, Nghị quyết Hội nghị BCH Trung ương Đảng lần thứ 8
(khoá XI) về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Chỉ thị số 16/CT-TW
của Bna Bí thư Trung ương về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng
DQTV và lực lượng DBĐV trong tình hình mới. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã ban
hành Pháp lệnh DQTV năm 1996, Pháp lệnh DQTV năm 2004, Luật DQTV năm 2009 và mí
đây nhất là Luật DQTV năm 2019. Đây là văn bản có tính pháp lý cao nhất của Nhà
nước nhằm tiếp tục tăng cường chỉ đạo xây dựng lực lượng DQTV vững mạnh
toàn diện cả về tổ chức, huấn luyện, hoạt động và công tác bảo đảm theo chức
năng, nhiệm vụ chặt chẽ thống nhất với cơ chế Đảng lãnh đạo, chính quyền điều
hành, cơ quan quân sự làm tham mưu. Lực lượng DQTV ngày càng được củng cố, huấn
luyện hoạt động có hiệu quả lớn, phát huy tốt vai trò là một trong những lực
lượng nòng cốt trong lao động sản xuất, bảo vệ sản xuất, phòng chống khắc phục
hậu quả, thiên tại, địch hoạ và phối hợp cùng với các lực lượng khác góp phần
giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở cac địa phương cơ sở.
Trải
qua 89 năm xây dựng, phát triển, chiến đấu và trưởng thành dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam, lực lượng DQT là lực lượng vũ trang quần chúng, sinh ra
và lớn lên trong phong trào cách mạng của nhân dân, gắn bó mật thiết với quê
hương, làng bản, với từng căn nhà, đường phố, công, nông lâm trường, nhà máy,
xí nghiệp. Sống, chiến đấu trong lòng dân, được nhân dân yêu thương, đfùm bọc,
che chở. Trong suốt 89 năm vượt qua đầy khó khăn, gian khổ, thử thách, hy sinh;
các thế hệ cán bộ, chiến sĩ DQTV đã hết lòng trung thành với Tổ quốc, với nhân
dân, với sự nghiệp cách mạng của Đảng, chiến đấu kiên cường, mưu trí, dũng cảm
lao động học tập, công tác hiệu quả, sáng tạo và đãlapaj nhiều chiến công to
lớn; góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân và các lực lượng vũ trang nhân dân giành
thắng lợi lịch sử Cách mạng tháng Tám năm 1945, trong sự nghiệp đấu tranh giải
phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN và
sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước
Trải qua các thời kỳ cách mạng, cùng với sự lớn
mạnh, trưởng thành lực lượng dân quân tự vệ trong của cả nước, lực lượng dân
quân tự vệ xã Quỳnh Tam cũng đã phát triển nhanh chóng về mọi mặt. Lực lượng
dân quân tự vệ đã hậu thuẫn cho nhân dân các địa phương đứng lên giành chính
quyền, tích cực phối hợp tham gia chiến đấu cùng bộ đội chủ lực và bộ đội địa
phương. Với những đóng góp to lớn trong các cuộc kháng chiến chống Pháp và
chống Mỹ nổi bật là những trận đánh liên tiếp diễn ra thắng lợi có sự tham gia
của du kích và nhân dân đã góp phần làm rạng rỡ truyền thống anh hùng của quê
hương Quỳnh Tam, cùng với quân và dân cả nước ghi vào lịch sử chống ngoại xâm
của dân tộc những trang vàng chói lọi. Cùng với tham gia chiến đấu, lực lượng
dân quân tự vệ còn tích cực tham gia lao động sản xuất, xây dựng các căn cứ
quân sự, công trình quốc phòng, giữ gìn an ninh trật tự và phòng chống khắc
phục hậu quả thiên tai ở địa phương. Đồng thời, dân quân tự vệ luôn là lực
lượng chủ yếu bảo vệ Đảng, chính quyền và nhân dân ở cơ sở.
Trong những năm qua, lực lượng dân quân tự vệ luôn được sự quan tâm lãnh
đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, sự ủng hộ và tham gia tích cực
của các tầng lớp nhân dân. Lực lượng dân quân tự vệ ngày càng
được củng cố, kiện toàn về tổ chức, biên chế, nâng cao về chất lượng hoạt động,
trở thành một trong những lực lượng nòng cốt trong thế trận quốc phòng toàn dân
gắn với thế trận an ninh nhân dân của địa phương./.
BCHQS xã Quỳnh Tam